TỔNG LUẬN VỀ YẾT-MA
(trích YẾT-MA YẾU CHỈ)
Ḥa thượng THÍCH TRÍ THỦ Giảng thuật
TK THÍCH ĐỖNG MINH & THÍCH NGUYÊN CHỨNG biên tập
(tiếp theo và hết)
TIẾT HAI
PHÂN TÍCH NỘI DUNG
CỦA YẾT MA
I. YẾT MA LÀ G̀?
Yết ma là phiên âm từ KARMAN của tiếng Phạn. Hán dịch là "tác pháp biện sự", và thường được các luật sư Trung quốc giải thích rằng "Vạn sự do tư thành biện cố.” Nghĩa là tất cả công việc của Tăng đều do nó mà được thành tựu mỹ măn. Đây là dịch và giải thích theo chức năng của yết ma. Trong nghĩa đen của tiếng Phạn, KARMAN hay "yết ma" có nghĩa là hành động hay hành vi. Có hành động thuộc cá nhân mà cũng có hành động thuộc tập thể. Để phân biệt rơ hai phạm vi trách nhiệm như thế, trong thuật ngữ Hán dịch chữ NGHIỆP luôn luôn được dùng để chỉ cho hành động thuộc cá nhân, và cá nhân ấy hoàn toàn chịu trách nhiệm về những hậu quả mà nó đă làm. Trái lại, phiên âm yết ma chỉ dùng cho các hành vi tập thể. ([8])
Trong giáo lư căn bản của Phật, không có hành động nào với sự cố ư mà không đưa đến hậu quả tương xứng nhất định. Động lực của hành vi luôn luôn là ư chí, tức điều mà thuật ngữ của Luận tạng gọi là tư. ([9]) Hoạt động của ư chí ngang qua sự biểu hiện của thân và ngữ. Khi ư chí đạt đến mục đích mà nó mong muốn, bấy giờ nghiệp đạo căn bản được thành tựu. Nhưng quá tŕnh của bất cứ hành vi nào thuộc thân hay thuộc ngữ, bao giờ cũng phải đi qua ba giai đoạn.([10]) Giai đoạn thứ nhất gọi là gia hành của nghiệp đạo, tức giai đoạn chuẩn bị cho hành động. Giai đoạn thứ hai là căn bản của nghiệp đạo, lúc mà hành vi đạt đến mục đích mong muốn. Và sau cùng là hậu khởi của nghiệp đạo, sự tiếp diễn của hành động sau khi căn bản nghiệp đạo đă thành tựu. Sự phân biệt này không chỉ áp dụng cho các hành vi cá nhân, mà cả trong các hành vi tập thể. Thí dụ trường hợp thọ giới cụ túc. Sự thành tựu của giới cụ túc, nghĩa là giới tử đắc giới hay nói rơ hơn, giới thể vô biểu đă phát sinh trong thân và tâm của giới tử, khiến cho bản chất tỳ kheo hiện hữu nơi giới tử, sự thành tựu này là hành vi tập thể, tức do tác pháp yết ma như pháp mà được thành tựu. Căn bản nghiệp đạo được thành tựu, tức giới thể vô biểu phát sinh nơi giới tử, chỉ khi nào Tăng đă hoàn tất tác pháp yết ma lần thứ ba. Tất cả các giai đoạn trước, kể từ khi giới tử phát sinh tâm niệm cầu thọ cụ túc giới, được dẫn vào trước Tăng, thành khẩn nói những lời cầu thỉnh giới sư v.v… cho đến Tăng đă thực hiện một lần tác bạch và ba lần yết ma, tất cả những diễn tiến này đều được gọi là gia hành của nghiệp đạo. Sau khi Tăng đă hoàn tất bạch tứ yết ma, giới thể vô biểu đă phát sinh nơi giới tử, bấy giờ căn bản của nghiệp đạo được thành tựu. Từ đó trở đi, những việc như truyền trao pháp tứ y, tứ khí, và các sự giáo giới của Tăng đối với vị tân tỳ kheo đều được gọi là hậu khởi của nghiệp đạo.
Như vậy, trên nền tảng, không có sự phân biệt giữa nghiệp cá nhân và nghiệp tập thể. nguyên lư áp dụng cho một kẻ sát nhân thành tựu hành vi sát hại của nó qua các giai đoạn gia hành nghiệp đạo, căn bản nghiệp đạo, và hậu khởi nghiệp đạo như thế nào, th́ nguyên lư ấy cũng áp dụng cho tác pháp yết ma của Tăng. Đây là nguyên lư cơ bản để xác định tác pháp yết ma của Tăng được thành tựu hay không thành tựu. Bởi v́, như một người khởi tâm muốn sát hại, và chuẩn bị tất cả điều kiện cần thiết để hoàn tất sự sát hại, nhưng tội sát có thể không thành tựu v́ căn bản nghiệp đạo không đủ yếu tố để phát sinh, và cứ theo đó mà người ta xác định các trường hợp khinh trọng của tội sát. Hành sự của Tăng cũng vậy, yết ma thành hay không thành tựu đều được chi phối bởi nhiều điều kiện.
Xác định tầm mức khinh trọng của một hành động cá nhân cố nhiên không phải đơn giản, do sự diễn tiến phức tạp của hành vi, nhưng nếu so với việc xác định giá trị thành hay hoại của hành vi tập thể th́ sự phức tạp ấy vẫn c̣n tương đối đơn giản. Bởi v́, trong giáo lư của Phật, động lực của nghiệp hay hành vi là ư chí. Nếu là ư chí cá nhân, th́ chỉ giới hạn trong trạng thái do dự hay cương quyết. Nhưng nếu là ư chí tập thể, th́ sự thống nhất ư chí trong tinh thần tuyệt đối ḥa hiệp phải được đặt lên hàng đầu. Tất nhiên, một tập thể không phải là một bản thể trừu tượng, mà nó là một hợp thể của nhiều cá thể. Thái độ do dự của một cá thể là sự nứt rạn của tập thể. Một tập thể bị nứt rạn th́ chẳng khác nào một con người bệnh hoạn, thương tích, bại liệt, không thể hoàn tất sự việc ǵ đáng kể. Cho nên, yếu tố căn bản của tất cả mọi pháp yết ma là sự thanh tịnh và ḥa hiệp của Tăng.
Trong phạm vi hành động tập thể như vừa nói, để phân biệt với hành động ca nhân, từ KARMAN thay v́ dịch là NGHIỆP th́ Hán văn chỉ phiên âm là YẾT MA. Nhưng nếu nói cho đủ, cho rơ ràng hơn phải nói là TĂNG GIÀ YẾT MA, tức tiếng Phạn nói SANGHAKARMAN – hành vi của Tăng. Cần phải nói đủ như vậy mới có thể phân biệt hành vi của các tập thể thế gian khác với hành vi tập thể của Tăng già, là cộng đồng các tỳ kheo. Trong các tập thể khác của thế gian, khi người ta cần có một quyết định chung th́ những người tham dự quyết định cần phải hội đủ những điều kiện cần thiết để xác định tư cách của mỗi thành viên; nhưng tư cách này chỉ cần căn cứ trên chức năng của cá nhân ấy trong quan hệ tập thể. Trong phạm vi của Tăng, mà thành phần là các tỳ kheo, yếu tố để xác định tư cách không chỉ là chức năng, mà c̣n là bản chất. Cho nên, sự thanh tịnh của mỗi tỳ kheo trong việc giữ ǵn các điều học của giới bổn là bản chất của Tăng mà cũng là sự thanh tịnh của Tăng.
Nói tóm lại, yết ma, hay nói đủ là Tăng già yết ma, là hành sự của Tăng, căn cứ trên nền tảng là sự thanh tịnh và ḥa hiệp của Tăng, gồm những nguyên tắc đ̣i hỏi phải tuyệt đối tuân theo được áp dụng tùy theo đối tượng của hành sự.
II. ĐỐI TƯỢNG CỦA YẾT MA
Trong tư tưởng triết học của đạo Phật, tiêu chuẩn sau đây được nhắc đến khi cần xác định tính hiện thực của một sự hữu: "Cái ǵ hiện thực, cái đó có tác dụng, và ngược lại cái ǵ có tác dụng, cái đó hiện thực.” Tác dụng được nói đến đó là một khía cạnh khác của nghiệp hay hành động. Trên nền tảng lư tính duyên khởi, không có tác dụng nào phát sinh từ hư vô, mà phát sinh trong điều kiện quan hệ hỗ tương. Cho nên, khi phân tích sự thành tựu của căn bản nghiệp đạo, các luận sư của Luận tạng đă không thể bỏ sót không đề cập y xứ của nghiệp đạo. y xứ tức đối tượng; sự thành tựu của mỗi nghiệp đạo chỉ có thể được xác định chỉ khi nào xác định được y xứ của nó. ([11]) Thí dụ, trường hợp một người phát nguyện thọ tŕ giới cấm không sát sinh. Động lực của hành vi hay nghiệp đạo này là tư niệm hay ư chí. Bản chất của nghiệp đạo này, khi đă thành tựu, là không sát hại bất cứ một sinh vật nào. Cho nên, toàn thể sinh vật trên thế gian đều là y xứ của nghiệp đạo không sát sinh. Y xứ này là đối tượng mà tư niệm duyên đến làm động lực cho các quá tŕnh của nghiệp đạo là gia hành, căn bản và hậu khởi. nếu tư niệm không bao trùm được toàn thể sinh vật trên thế gian, tức y xứ bị khuyết, th́ dù tư niệm luôn luôn có mặt trong suốt giai đoạn gia hành, nhưng nó không đưa đến căn bản nghiệp đạo, tức giới thể vô biểu của bất sát không phát sinh nơi người thọ giới. Y xứ như vậy gồm đối tượng, tức toàn thể sinh vật và không gian, toàn thể sinh vật trên thế gian không trừ địa vực nào, và trong tất cả thời gian.
Cũng như mỗi nghiệp đạo thành tựu hay không thành tựu với các trường hợp trọng hay khinh là tùy theo y xứ của nó toàn hay khuyết. Cũng vậy, yết ma của Tăng thành hay không thành cần phải được cân nhắc theo từng đối tượng hay y xứ.
Trong lịch sử truyền luật tại Trung quốc, các luật sư phân biệt có ba đối tượng của yết ma. Đó là Nhân, Pháp và Sự.
1. Nhân: Tức nhân cách hay cá nhân. Tăng tác yết ma với đối tượng là một cá nhân nào đó, như các loại yết ma truyền giới cụ túc, yết ma trị phạt v.v… Thí dụ trong trường hợp yết ma truyền giới cụ túc. Trước khi tác pháp, Tăng phải kiểm nghiệm tất cả điều kiện cần thiết của giới tử tỳ kheo. Người muốn được Tăng tác pháp yết ma để trao giới cụ túc phải không có các già nạn, tuổi đủ hai mươi, ba y và b́nh bát phải đủ. ([12]) Tất cả điều kiện này tác thành nhân cách thành tựu của một giới tử tỳ kheo. Tăng già yết ma trong trường hợp này chỉ có hiệu lực đối với một nhân cách thành tựu như thế. Nếu có điều kiện nào c̣n thiếu, nhân cách không thành tựu, và như vậy yết ma cũng không thành tựu. Đấy là sự quan hệ mật thiết giữa yết ma và y xứ của yết ma. Cũng tương tợ, như trường hợp Tăng tác pháp yết ma cho một tỳ kheo sám hối tăng tàn. Chỉ khi nào Tăng xét nghiệm thỏa măn tất cả điều kiện tác thành một tỳ kheo tăng tàn, th́ tỳ kheo ấy mới trở thành y xứ của một loại yết mà này. pháp tăng tàn chỉ hiện diện nơi bản thân một người đă thọ giới cụ túc đúng như pháp; nếu trái lại th́ dù người đó có hội đủ tất cả điều kiện tương xứng tội tăng tàn, cũng không thể được gọi là tỳ kheo tăng tàn. Yết ma sám tăng tàn chỉ có hiệu lực đối với y xứ là một tỳ kheo phạm tăng tàn, chứ không thể đối với sa di hay các hạng người khác.
2. Pháp: hay b́nh pháp, chỉ có các sinh hoạt tập thể của Tăng mà Phật đă quy định, như việc thuyết giới mỗi nửa tháng, hay tự tứ v.v… Mục đích của việc thuyết giới là duy tŕ và phát huy sự thanh tịnh và ḥa hiệp của Tăng. ([13]) Như vậy, y xứ của yết ma thuyết giới là cộng đồng các tỳ kheo thanh tịnh và ḥa hiệp cùng sống chung trong một trú xứ. Trong sự xét nghiệm các điều kiện để thỏa măn y xứ này, trước hết là bản vị của cộng đồng, đó là sự hiện diện của các tỳ kheo trong phạm vi đại giới của trú xứ. Nếu trong lúc Tăng đang tác pháp yết ma, có một tỳ kheo nào đó không tham dự vào giới trường thuyết giới cũng không có gởi dục đúng pháp, mặc dù tỳ kheo ấy đang ở trong phạm vi của đại giới; như vậy y xứ này bị khuyết và yết ma không thành tựu. Mặt khác, như đă nói, mục đích thuyết giới là củng cố và phát triển sự thanh tịnh và ḥa hiệp giữa các tỳ kheo, nếu lúc Tăng tác pháp yết ma thuyết giới mà trong phạm vi của giới trường có sự hiện diện của một tỳ kheo không thanh tịnh, tức tỳ kheo có phạm tội, nhưng chưa sám hối đúng pháp; như vậy y xứ này cũng bị khuyết. Vả lại việc thuyết giới là một tăng sự có định kỳ; nếu Tăng tác pháp yết ma này mà triển hạn định kỳ không đúng pháp, th́ y xứ cũng bị khuyết. Bất cứ y xứ bị khuyết trong trường hợp nào, yết ma thuyết giới cũng đều bất thành.
3. Sự: tức là sự thể hay sự vật. Nói rơ hơn y xứ của yết ma trong các trường hợp này là những vật thể hữu h́nh, như việc kết đại giới, tiểu giới, việc phân chia tăng pḥng, tăng vật v.v… mỗi loại đối tượng có một sắc thái tác thành bản chất của nó. Thí du, đại giới th́ phải có mốc rơ rệt của các đường ranh; tăng vật th́ có những vật dụng thuộc sở hữu của chiêu đề tăng, hay của thường trú tăng. Như việc phân chia b́nh bát giữa tăng, nếu các b́nh bát này không được chế tạo đúng theo qui luật, nó không thể là y xứ toàn vẹn của yết ma. Và nếu đối tượng để phân chia là thường trú tăng trong một trú xứ, nhưng các tỳ kheo không tập họp đúng pháp như vậy th́ y xứ cũng bị khuyết.
Nói tóm lại, bất cứ y xứ của yết ma là loại nào, mỗi loại đều có một số đặc tính hay điều kiện để tác thành bản thể của nó. Khi các đặc tính không hội đủ, các điều kiện c̣n thiếu sót, th́ y xứ của yết ma sẽ bị khuyết một phần hay hư hoại toàn bộ. Như một người tàn khuyết chỉ có thể thích hợp cho hành vi này mà không thể thích hợp cho các hành vi khác; đương nhiên nó không thể hoàn tất hành vi mà nó không thích hợp. Cũng vậy sự cân nhắc tính chất toàn khuyết của các y xứ tùy theo loại để tương xứng với tác pháp yết ma là điều không thể coi nhẹ được.
III. PHÂN LOẠI YẾT MA
Nếu dựa trên tác phẩm để phân chia th́ tổng quát có ba loại yết ma: tâm niệm, đối thú và tăng pháp. Tâm niệm là tự ḿnh nghĩ và nói lên lời mà không cần có người thứ hai để nghe. Như tâm niệm bố tát hay tâm niệm tự tứ chẳng hạn. đối thú là sự tác pháp giữa hai hay ba người. Một người nói, một hay hai người khác nghe. Cả hai pháp này thực chất không phải là yết ma, nhưng sự tác pháp là tuân theo những ǵ là Tăng đă qui định, duy chỉ có điều là không hội đủ túc số để thành tăng pháp.
Riêng về tăng pháp yết ma, căn cứ trên pháp thức, th́ chủ yếu có ba loại: đơn bạch, bạch nhị và bạch tứ.([14]) Đơn bạch là chỉ một lần tác bạch giữa tăng, tức th́ tăng pháp được thành tựu. Bạch nhị là một lần bạch và một lần yết ma. Bạch tứ là một lần bạch và ba lần yết ma. Ngoài ba loại tăng pháp yết ma chủ yếu này, căn cứ theo luật Tăng kỳ th́ có thể thêm một trường hợp nữa: cầu thỉnh yết ma, cầu thỉnh là tác bạch giữa tăng để cầu thỉnh tăng thực hiện một pháp yết ma nào đó. Thực chất điều này cũng không phải là pháp yết ma, nhưng v́ là sự cáo tri sự việc giữa Tăng, mà những ǵ được làm giữa Tăng đều gọi là yết ma, theo nghĩa rộng răi nhất, v́ thế nó cũng được gọi là yết ma.
Ở trên đă nói, nghĩa đen của yết ma là nghiệp hay hành động, hành vi. Trong phạm vi cá nhân, thân và khẩu đều là biểu hiện của nghiệp. Bất cứ hành vi nào của thân và ngữ, nếu hội đủ yếu tố để sẽ đưa đến hậu quả nhất định, đều được gọi là nghiệp cả. Trong trường hợp tăng già yết ma, sự thống nhất ư chí phải được biểu hiện bằng lời, và chỉ có sự biểu hiện này mới đưa đến hậu quả nhất định v́ nó có đủ hiệu lực để chi phối tất cả hành động khác của mỗi cá nhân trong một tập thể. nói cách khác, trong các hành sự của Tăng, thân nghiệp không đủ năng lực để thành tựu căn bản nghiệp đạo, mà duy chỉ có ngữ nghiệp. Cho nên bất cứ hành vi nào được thực hiện giữa tăng đều phải được biểu hiện bằng lời nói. Lời nói phải rơ ràng, mạch lạc, tất cả mọi người đều nghe và hiểu, như thế yết ma mới thành tựu.
Như vậy, trong sự diễn tiến của tác pháp yết ma, gia hành nghiệp đạo của yết ma có thể được thực hiện bằng các động tác của thân và ngữ, như lễ bái, cầu thỉnh v.v… nhưng căn bản nghiệp đạo của yết ma chỉ có thể thành tựu bằng nghiệp ngữ, tức bằng lời nói. Không phải tất cả các tỳ kheo trong Tăng đều cùng nói một lượt để xác định một vấn đề. Nhưng một tỳ kheo trong Tăng biết rơ các pháp thức yết ma, đại diện Tăng tác pháp, lời nói của vị này trong khi tác pháp là lời nói cá nhân, nhưng thể tính của căn bản nghiệp đạo ở đây là cộng nghiệp. Cũng như trong các sinh hoạt tập thể của thế gian, khi một mệnh lệnh được ban hành hay một quyết định được thông báo, th́ chỉ có thể phát xuất từ lời nói của một người có tư cách đại diện cho tập thể. Nếu trong lúc đó cả hai người cùng nói th́ không thể thành lệnh được. Pháp nhĩ như thị, bản chất của ngữ nghiệp là như vậy. Cho nên, trong khi Tăng tác pháp yết ma, chỉ một tỳ kheo hội đủ điều kiện đại diện Tăng nói lời tác bạch và yết ma, chứ không thể hai tỳ kheo cùng nói một lần. Nếu cả hai người cùng nói, mặc dù cùng văn cú như nhau, nhưng như vậy là thành hai quyết định của Tăng dù nội dung đồng nhất. ([15])
Trong ba loại yết ma chủ yếu được phân loại theo pháp thức vừa kể trên, tùy theo đối tượng của yết ma mỗi loại được thực hiện cho tương xứng.
Theo thống kê tổng quát của Yết ma chỉ nam, có tất cả 44 pháp thuộc đơn bạch yết ma. Tăng sự trong các trường hợp này vốn đơn giản, chỉ cần một lần tác bạch cho Tăng biết là đủ.
Về bạch nhị yết ma, tổng quát có tất cả 78 pháp, tăng sự trong các trường hợp này có tầm quan trọng hơn các tăng sự thuộc loại đơn bạch yết ma. Do đó, sau khi tác bạch cho Tăng biết sự việc mà Tăng cần phải quyết định, rồi bấy giờ hỏi xem các tỳ kheo đang hiện diện giữa Tăng có ai phản đối hay không. Nếu tất cả đều im lặng, không tỳ kheo nào nói lời phản đối, hay phủ quyết, th́ quyết định của Tăng có hiệu lực. Nói cách khác, bạch nhị yết ma tức là một lần tác bạch và một lần biểu quyết.
Về bạch tứ yết ma, tổng quát có 39 pháp. Một lần bạch và ba lần yết ma, tức một lần tác bạch cho Tăng biết tăng sự cần làm rồi ba lần lấy biểu quyết. Đây là trường hợp của những tăng sự quan trọng nhất. Căn bản nghiệp đạo của các tăng sự này chỉ có thể thành tựu sau khi ba lần hỏi và ba lần toàn thể Tăng đều đồng ư chấp thuận bằng cách im lặng.
Yết ma thành tựu có nghĩa là căn bản nghiệp đạo của tăng sự thành tựu. Cũng như trong trường hợp nghiệp đạo cá nhân, chỉ khi nào căn bản của nghiệp đạo thành tựu, th́ mới có thể đưa đến hậu quả tốt hoặc xấu tương xứng. Cũng vậy, căn bản nghiệp đạo của Tăng sự có thành tự th́ quyết định của Tăng mới có hiệu lực chi phối toàn thể các tỳ kheo trong Tăng. Sau khi yết ma thành tựu như vậy, nếu có tỳ kheo nào làm khác đi điều mà Tăng đă chấp thuận và quyết định, tỳ kheo đó phạm tội, khinh hay trọng tùy theo loại tăng sự.
161 pháp yết ma kể trên không phải là con số cố định. Tăng sự khinh hay trọng c̣n tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, môi trường xă hội các thứ. Nhưng điều căn bản cần nắm vững là ba loại pháp thức yết ma ấy. Mỗi khi có sự việc ǵ xảy ra giữa Tăng, cần phải cân nhắc y xứ để theo đó mà áp dụng một pháp thức yết ma nào cho tương xứng. Điều này sẽ được nói rơ ở các chương sau.
IV. CÁC GIAI ĐOẠN TIẾN HÀNH CỦA YẾT MA
Cũng như quá tŕnh diễn tiến của nghiệp đạo, cũng vậy, có ba giai đoạn chủ yếu của yết ma: gia hành của yết ma, cũng gọi là tiền phương tiện; căn bản của yết ma tức giai đoạn yết ma thành tựu, và từ đó trở đi cho đến khi Tăng giải tán gọi là hậu khởi của yết ma.
Như đă nói, bản chất của yết ma là ngữ nghiệp, do đó tất cả ba giai đoạn của yết ma đều lấy ngữ nghiệp làm cơ sở. Những lời được nói giữa Tăng, v́ là những lời có tính chất cộng nghiệp, cần theo một qui tắc văn cú và văn mạch qui định sẵn, chứ không thể tùy tiện nói sao th́ nói.
Gia hành hay tiền phương tiện của yết ma bắt đầu sau khi các tỳ kheo đă ổn định vị trí giữa Tăng, tập họp đúng theo nguyên lư căn bản là thanh tịnh và ḥa hiệp. Tất cả các loại yết ma, từ đơn bạch cho đến bạch tứ, đều có tiền phương tiện giống nhau, với lời văn như sau: Một tỳ kheo thượng tọa đại diện Tăng tác pháp yết ma, bắt đầu hỏi; một tỳ kheo khác, gọi là vị duy na của Tăng, đại diện Tăng trả lời; hỏi và trả lời lần lượt diễn ra như sau:
Vấn đáp 1:
Hỏi: Tăng đă họp chưa?
Đáp: Tăng đă họp.
Vấn đáp 2:
Hỏi: Ḥa hiệp không?
Đáp: Ḥa hiệp.
Vấn đáp 3:
Hỏi: Người chưa thọ cụ túc đă ra chưa?
Đáp: Đă ra (hoặc nói: Trong đây không có người chưa thọ cụ túc).
Vấn đáp 4:
Hỏi: Các tỳ kheo không đến có thuyết dục không?
Đáp: Không (nếu không có ai gởi dục. Có th́ đáp là có và thuyết dục)
Vấn đáp 5:
Hỏi: Tăng nay ḥa hiệp để làm ǵ?
Đáp: (nói tăng sự) yết ma.
Các vấn đáp trên có mục đích biểu hiện cụ thể sự thanh tịnh và ḥa hiệp của Tăng qua ngữ nghiệp. Tăng có thanh tịnh và ḥa hiệp th́ căn bản nghiệp đạo của yết ma mới có thể thành tựu.
Vấn đáp 1, có mục đích xác nhận sự tập hợp của Tăng là đúng pháp. Tăng tập họp đúng pháp là Tăng túc số. Mỗi loại yết ma đều có yêu cầu túc số tối thiểu nhất định, tương xứng với đối tượng của yết ma. Vấn đề túc số Tăng sẽ được nói sau.
Vấn đáp 2, xác nhận sự ḥa hiệp của Tăng. Trong cùng một giới, nếu Tăng không được xác nhận là ḥa hiệp th́ yết ma của Tăng bất thành.
Vấn đáp 3, là kiểm điểm thành phần của Tăng. Những người chưa thọ cụ túc, nghĩa là chưa đắc giới để thành tựu bản thể của tỳ kheo, không phải là thành phần của Tăng không được tham dự yết ma của Tăng.
Vấn đáp 4, có một vài thay đổi tùy theo loại yết ma. Như các yết ma kết tiểu hay đại giới, không tỳ kheo nào được vắng mặt dù bất cứ lư do nào, do đó hoàn toàn không cho phép thuyết dục và như vậy vấn đáp này được bỏ qua.([16]) Trong trường hợp thuyết giới, các tỳ kheo đang có mặt trong đại giới, nhưng có duyên sự chính đáng được phép không tập họp trong giới trường thuyết giới th́ phải gởi dục và thanh tịnh. Gởi dục là gởi ư chí tùy thuận Tăng, sẽ chấp hành bất cứ một quyết định nào của Tăng. Và cũng phải báo cáo cho Tăng biết là đối với các học xứ của tỳ kheo ḿnh hoàn toàn thanh tịnh .([17]) Như vậy, trong trường hợp tác pháp thuyết giới, vấn đáp này cần nói đủ như sau:
- Các tỳ kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không?
Cũng trường hợp tác pháp thuyết giới, v́ theo điều Phật chế, tỳ kheo ni tăng mỗi nữa tháng phải đến Tăng cầu thỉnh giáo thọ sư, là một trong Tám kỉnh pháp của tỳ kheo ni, do đó, sau vấn đáp 4, c̣n có thêm vấn đáp này nữa.
- Có ai sai tỳ kheo ni đến thỉnh giáo giới hay không?
Nếu có th́ đáp có, nếu không th́ đáp không. Chi tiết của các việc này sẽ được nói rơ trong chương thuyết giới.([18])
Vấn đáp 5, là xác định mục đích mà Tăng tập họp để tác pháp. Như nếu tập họp để thuyết giới, th́ đáp là: yết ma thuyết giới, nếu để kết đại giới th́ đáp: yết ma kết đại giới v.v….
Trên đây là văn tiền phương tiện của yết ma. Nhưng pháp thức yết ma có đơn có kép khác nhau, do đó trong một lần tác pháp, có trường hợp chỉ có một tiền phương tiện cho nhiều tác pháp yết ma, nhưng cũng có trường hợp phải có mỗi tiền phương tiện cho mỗi tác pháp yết ma. Thí dụ trường hợp tự tứ hay thuyết giới. Trong trường hợp tự tứ, tác pháp chủ yếu là đơn bạch yết ma. Nhưng v́ Tăng đông, cần phải sai người hành trù để kiểm điểm tăng số, th́ có thêm bạch nhị yết ma để Tăng sai người hành xá la. Hoặc cần có người nhận sự tự tứ của các tỳ kheo, th́ có thêm bạch nhị yết ma để Tăng sai tỳ kheo làm người nhận tự tứ. Tất cả các yết ma này đều là gia hành của yết ma tự tứ. Do đó, trong vấn đáp 5, câu trả lời vẫn phải nói là yết ma tự tứ. Mặc dù tiếp theo đó bạch nhị Tăng sai tỳ kheo hành trù hay nhận tự tứ rồi mới đến đơn bạch tác pháp tự tứ sau cùng. Như vậy, trong một lần tập Tăng, cùng một tiền phương tiện gồm vấn đáp 1, 2, 3, 4, mà tác pháp nhiều loại yết ma, lời văn vấn đáp 5 thay đổi theo từng việc.
Trường hợp khác, như giải và kết đại giới hay tiểu giới. Sau khi tác tiền phương tiện để tác pháp yết ma giải giới, lại cần có tiền phương tiện khác để yết ma kết giới. Mặc dù thời gian của kết giới và giải giới được tiến hành liên tục, nhưng bản chất của hai loại yết ma khác nhau, do đó không thể cùng chung một tiền phương tiện. Tức là, bắt đầu từ vấn đáp một cho đến sau cùng hỏi và đáp: Tăng nay ḥa hiệp để làm ǵ? - Yết ma giải đại giới. Sau khi xong tác pháp giải giới, lại tác tiền phương tiện khác, cũng bắt đầu với vấn đáp 1 cho đến sau cùng hỏi: Tăng nay ḥa hiệp để làm ǵ? Đáp Yết ma kết đại giới. Như thế gọi là tác pháp đơn. Nghĩa là một tiền phương tiện cho một tác pháp duy nhất chứ không được phép kiêm cả hai.
Có trường hợp nhất định đơn, như yết ma kết và giải giới v.v… có trường hợp nhất định kép, như truyền thọ cụ túc v.v…, có trường hợp bất định, như thuyết giới hay tự tứ v.v…. nếu tiền phương tiện không được thực hiện đúng theo các tác pháp đơn hay kép hay bất định như thế th́ yết ma của tăng bất thành.
Sau khi tiền phương tiện, tức gia hành của yết ma được thành tựu, bây giờ tùy theo loại yết ma, hoặc đơn bạch, hoặc bạch nhị, hoặc bạch tứ, cần phải đúng pháp mà thực hiện để cho căn bản nghiệp đạo của yết ma được phát sinh, và do thế yết ma của Tăng được thành tựu. Văn của mỗi loại yết ma này sẽ được nói trong các chương liên hệ.
Sau khi căn bản nghiệp đạo của yết ma đă thành tựu, từ đó là hậu khởi của yết ma. Thí dụ, sau đơn bạch thuyết giới, th́ việc tụng đọc các học xứ trong giới kinh, từ bài tựa cho đến các bài kệ thất Phật và cuối cùng là các kệ tán giới v.v… cho đến cuối cùng các tỳ kheo đều ra khỏi giới trường thuyết giới, trọn cả giai đoạn này gọi là hậu khởi của yết ma. Hậu khởi cũng phải được tiến hành như pháp. Thí dụ, nếu là yết ma thuyết giới, th́ phải đọc trọn giới kinh từ đầu đến cuối. Nếu v́ nạn duyên không thể đọc trọn, th́ trường hợp nào có thể đọc đến đều khoản nào cũng phải như pháp chứ không thể tùy tiện muốn đọc đến đâu và muốn nghỉ ở đâu. Hoặc trong yết ma tự tứ cũng vậy. Sau đơn bạch tự tứ, các tỳ kheo bắt đầu lần lượt nói tam sự tự tứ, cho đến tỳ kheo cuối cùng. Nếu c̣n một tỳ kheo nào chưa kịp nói tam sự tự tứ mà Tăng đă giải tán, th́ hậu khởi bị đứt ngang, dù tác pháp yết ma có thành tựu đúng pháp, nhưng hiệu lực của yết ma bị giảm sút.
Do vậy, trong khi tác pháp yết ma, phải thực hiện cho hoàn tất đúng pháp cả ba giai đoạn của yết ma, không thể tiện thêm bớt.
V. CÁC YẾU TỐ ĐỂ THÀNH TỰU YẾT MA
Tùy theo, mỗi loại yết ma cần hội đủ một số yếu tố nhất định mới thành tựu. Thí dụ, yết ma truyền giới cụ túc, gồm 4 yếu tố thành tựu: 1) Nhân thành tựu, tư cách giới tử đầy đủ. 2) Tăng thành tựu, tăng đủ số, gồm 5 hay 10 tỳ kheo tùy địa phương. 3) Giới thành tựu, giới trường hay tiểu giới đă được tác pháp ấn định như pháp. 4) Yết ma thành tựu, các giai đoạn của yết ma, gia hành, căn bản và hậu khởi được thực hiện đầy đủ như pháp.
Tổng quát có 4 yếu tố căn bản để yết ma được thành tựu: y xứ, giới, túc số và pháp thức.
1. Y xứ: hay đối tượng của yết ma, như đă nói rơ ở trên.
2. Giới: hay cương giới, sẽ được nói rơ trong chương tiếp theo (ChươngII)
3. Túc số: mỗi loại yết ma được thực hiện với một túc số tối thiểu. Có 4 trường hợp túc số Tăng, tức cũng là bốn phân loại Tăng theo túc số như đă nói ở trên. Nhưng túc số ở đây không phải kể theo đầu người, mà là kể theo phẩm tính, tức là người đă thọ cụ túc, hoàn toàn thanh tịnh; nếu có phạm tội th́ đă sám hối như pháp, và phải cùng hiện diện trong một cương giới. Nếu đứng ngoài các đường ranh của cương giới, hay dù ở trong cương giới nhưng bay lên khỏi mặt đất, thảy đều không được kể là túc số.
Ở đây cũng nên nói thêm một số chi tiết về túc số tăng bốn người. Nếu có bốn tỳ kheo trở lên cùng tập hợp trong phạm vi một cương giới th́ đủ để thành Tăng thể và có thể tác pháp cho các Tăng sự như thuyết giới. Tuy nhiên, trong trường hợp tự tứ, nếu cần có tỳ kheo tăng sai, th́ người thọ sai ấy là đối tượng của yết ma, không thể kể trong túc số bốn người. Các trường hợp tương tự khác, như phân chia vật dụng giữa Tăng. Cần có người thọ sai v́ là đối tượng của yết ma tăng sai do đó cũng không được kể trong túc số bốn người. Nói tóm lại, trong các trường hợp tương tự như thế, túc số Tăng phải kể là năm người, mặc dù tự bản chất, các loại yết ma này có thể được tác pháp với túc số tăng bốn người.
Ngoài ra, trong các loại yết ma, có các trường hợp cộng và bất cộng khác nhau. Bất cộng là tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni tăng không được tác pháp chung. Như vậy, trong túc số tỳ kheo không thể kể tỳ kheo ni vào và ngược lại cũng vậy.
4. Pháp thức: Pháp thức thành tựu hay yết ma thành tựu là các quá tŕnh diễn tiến của yết ma được thực hiện như pháp, theo thứ tự mạch lạc. Chi tiết của quá tŕnh này đă được nói trên.
VI. GIÀ YẾT MA
Tăng già yết ma là biểu hiện tuyệt đối của sự thống nhất ư chí của Tăng. Do đó, khi Tăng tác pháp, nếu có người đủ tư cách phủ quyết nói lên lời không chấp thuận tăng sự đang được tác pháp, th́ yết ma bất thành. Không có trường hợp đa số áp đảo thiểu số mà luôn luôn phải là sự thuần nhất. Già yết ma tức là tăng sự bị phủ quyết. Nhưng ai có tư cách phủ quyết này? có bốn trường hợp: ([19])
1. Người được kể trong túc số tăng nhưng không được phép ngăn yết ma (tức phủ quyết tăng sự): đó là những người đang là đối tượng của yết ma ha trách, yết ma tẩn xuất, yết ma y chỉ, yết ma cấm không cho đến nhà bạch y
2. Người không được kể trong túc số Tăng nhưng có quyền ngăn yết ma: đó là người đang cầu thọ cụ túc. ([20])
3. Người không được kể là túc số và cũng không có quyền ngăn yết ma: như khi tỳ kheo tăng tác pháp, th́ tỳ kheo ni không được kể trong túc số và cũng không được phép ngăn. Những người khác chưa thọ cụ túc, những người phạm biên tội, những người tặc tâm thọ giới, hoàng môn, ngũ nghịch, tỳ kheo đă bị tác pháp diệt tẩn, biệt trụ trong khi sám tăng tàn, tỳ kheo không cùng trú xứ, tỳ kheo đang hiện thần thông bay cách mặt đất, tỳ kheo ở ngoài tầm thấy và nghe khi Tăng tác pháp, cùng những người đang là đối tượng của yết ma. Tất cả các hạng người vừa nêu, không được kể trong túc số Tăng cũng không được phép ngăn Tăng tác pháp yết ma.([21])
4. Ngoài các hạng người kể trên, tỳ kheo thanh tịnh hiện diện được kể trong túc số và có quyền ngăn yết ma. Trong trường hợp bị ngăn như vậy, yết ma bất thành.
VII. PHI TƯỚNG CỦA YẾT MA
Trên đây đă nói về ba y xứ và bốn yếu tố thành tựu của yết ma và cũng đă nói rằng thể tính của tăng yết ma là ngữ nghiệp. Tất cả những điều đó là những điều kiện cần nghiệm xét và cần hội đủ để yết ma của Tăng được thành tựu và có hiệu lực. Ở đây sẽ nói đến các phi tướng của yết ma, tức những dấu hiệu cho biết yết ma không thể thành tựu. Các dấu hiệu này căn cứ trên hai yếu tố để nhận biết. Đó là nhân và pháp. Nhân hay nhân cách là thẩm quyền của một tỳ kheo trong túc số tăng, hay toàn thể Tăng, có thể được sử dụng trong một giới hạn nào đó. Pháp, tức qui tắc tác pháp. Chức năng của hai yếu tố này là kết hợp tất cả điều kiện cần có của Yết ma thành một chỉnh thể thống nhất. Một trong hai nếu không toàn vẹn, dấu hiệu bất thành của yết ma sẽ được nhận thấy.
Có bảy phi tướng của yết ma.
1. Phi pháp nhi t́ ni: trong ba loại yết ma đơn bạch, bạch nhị và bạch tứ, tùy theo tầm mức quan trọng của từng Tăng sự mà áp dụng. Với tăng sự chỉ cần đơn bạch là đủ, nhưng Tăng lại tác pháp bạch nhị hay bạch tứ. Hoặc bạch yết ma không theo thứ tự mạch lạc, như yết ma trước rồi bạch sau. Tất cả những trường hợp như vậy gọi là phi pháp, nghĩa là tác pháp không đúng pháp thức. Mặt khác, hoặc một người, cho đến hai hay ba người, chưa đủ tăng số mà tác pháp để cử tội một người, cho đến hai hay ba người, hay cử tội tăng ([22]). Những trường hợp như vậy gọi là phi t́ ni, v́ nhân cách vượt ngoài thẩm quyền mà luật đă qui định.
2. Phi pháp biệt chúng: tác pháp không đúng pháp thức và Tăng không được ḥa hiệp, đây gọi là phi tướng của yết ma do phi pháp và biệt chúng. Phi pháp ở đây cũng giống như đă nói ở trên. Biệt chúng là do sự tập họp tăng không đúng qui tắc. Thí dụ trong trường hợp tự tứ hay thuyết giới theo qui tắc th́ tất cả tăng đang có mặt trong cùng cương giới của trú xứ đă được ấn định đều phải tập họp toàn bộ, nếu không tập họp toàn bộ, và những người do duyên sự Tam bảo được phép không đến nhưng lại không gởi dục, hoặc gởi dục không đúng pháp. Như vậy, Tăng có thể bị chia thành hai chúng không ḥa hợp, do đó gọi là biệt chúng. Hoặc trong trường hợp truyền giới cụ túc, túc số tối thiểu phải mười vị tỳ kheo cùng tập họp trong phạm vi của giới trường, nhưng cùng trong giới trường mà kẻ đứng người ngồi không đồng nhất, th́ đây cũng gọi là biệt chúng.
3. Phi pháp ḥa hiệp: Tăng ḥa hiệp, nghĩa là không có biệt chúng, nhưng các loại yết ma được áp dụng lại không đúng tầm mức quan trọng của các tăng sự.
4. Như pháp biệt chúng: Trái với các trường hợp phi pháp đă nói trên tức là như pháp. Dù yết ma như pháp, nhưng chúng không ḥa hiệp, cũng là phi tướng của yết ma.
5. Pháp tương tự biệt chúng: Các loại yết ma đơn bạch, bạch nhị hay bạch tứ được áp dụng đúng cách theo tầm mức quan trọng của tăng sự, nhưng khi tác pháp th́ không đúng qui tắc, nghĩa là không theo thứ tự tác bạch trước rồi yết ma (lấy biểu quyết) sau mà lại yết ma trước tác bạch sau. Loại yết ma không đúng như thứ tự tác pháp điên đảo như vậy, gọi là tác pháp tương tự. Biệt chúng th́ như đă nói trên.
6. Pháp tương tự ḥa hiệp: Trái với biệt chúng là ḥa hiệp. Pháp tương tự th́ giống như điều 5 vừa nói.
7. Bị ngăn mà không đ́nh chỉ: Yết ma bị ngăn cản đúng pháp, nghĩa là người ngăn đủ tư cách đề ngăn, và ngăn đúng cách. Dù bị ngăn, tức bị phủ quyết, nhưng Tăng vẫn cứ tiến hành tác pháp, như thế cũng là phi tướng của yết ma.
Nói tóm lại, nếu phạm một trong bảy phi tướng kể trên, th́ yết ma của Tăng bất thành, và quyết định của Tăng không thể có hiệu lực.
VIII. KẾT LUẬN
Sự tồn tại của Tăng là sinh mạng của Phật Pháp. Thanh tịnh và ḥa hiệp là yếu tố của nền tảng tạo thành sinh mạng của tăng. Cũng như bất cứ sự tồn tại của một cộng đồng xă hội nào trong thế gian đều phải đặt trên nền tảng là sự thống nhất ư chí và hành động; mà biểu hiện của sự thống nhất này là sự thống nhất quyết định và mệnh lệnh được ban hành. Cũng vậy, Tăng có được sự ḥa hiệp là do sự thống nhất quyết định, và quyết định ấy được ban hành bằng mệnh lệnh mà tất cả thành phần của Tăng phải tuân theo. Làm thế nào để có sự thống nhất ấy là chức năng của yết ma.
Tuy nhiên, tổ chức Tăng già, tức cộng đồng các đệ tử xuất gia của Phật, không giống như bất cứ tổ chức nào của thế gian, cho nên các pháp yết ma của Tăng có những sắc thái và nội dung riêng biệt.
Như đă nói, tăng già yết ma là một h́nh thái khác của cộng nghiệp, hay hành vi tập thể. Trong các cộng đồng của thế gian, v́ mỗi tổ chức có một hay nhiều mục tiêu khác nhau, và do đó, quan niệm về bản chất và sắc thái hành động để đạt đến mục đích đó cũng khác nhau. Trong Phật pháp, mục đích tối thượng là giải thoát, là đạt đến đạo quả của Niết bàn. Do sự chi phối của nghiệp lực con người có thể bị đoạ lạc hay được thăng tiến, trở nên thấp hèn hay cao thượng. Sự chuyển hướng của hành động là sự chuyển hướng bản chất của con người, thay đổi xu hướng đọa lạc thành xu hướng siêu việt, đưa con người từ chỗ thấp hèn lên đến chỗ cao thượng. V́ vậy quan niệm về bản chất và biểu hiện của nghiệp trong giáo pháp của Phật không giống như các quan điểm về triết lư hành động của thế gian. Chính do điểm này mà các yết ma của Tăng, mặc dù xét trên h́nh thức th́ đại khái cũng giống như các nguyên tắc sinh hoạt trong các cộng đồng xă hội, dù vậy, bản chất và sắc thái yết ma của Tăng lại hoàn toàn khác hẳn. Nếu nắm vững giáo lư về nghiệp, gồm cả biệt nghiệp và cộng nghiệp, mà đức Phật đă giảng dạy, th́ có thể nắm vững được những điểm tinh yếu của Tăng già yết ma.
Nguyên lư căn bản của nghiệp trong Phật pháp có thể được phát biểu tóm tắt như vầy: "Sống là hành động" nếu muốn nói theo ngôn ngữ thông thường. Hoặc hói: "cái ǵ hiện thực, cái đó có tác dụng và ngược lại cái ǵ có tác dụng, cái đó hiện thực", đó là muốn nói theo ngôn ngữ triết lư. Dù muốn nói theo các nào, nói là hành động, hay nói là tác dụng, thảy đều là những cách nói khác về nghiệp. Yết ma là dấu hiệu cho sự tồn tại hay tan vỡ của Tăng. Với tính chất quan trọng như vậy, việc nghiên cứu các pháp yết ma là phận sự không thể nào xao lăng đối với tỳ kheo.
Chú thích:
[8] A-nhă Kiều-trần-như; Skt. Ajña-Kauṇḍinya (Pl. Aññā-Koṇḍañña).
[9] Da-xá, hay Da-thâu-già; Skt. Yaśa hay Yaśodha; Tứ Phần luật 32 (Đại 22, tr.789b). Pali, Mahāvagga I, Vn.i. tr. 1.
[10] Theo Luật tạng Pàli, Mahāvagga I, Vn.i. tr. 21 (Đại phẩm, Chương I ): Caratha, bhikkhave, cārikaṃ bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussanāṃ. Mā ekena dve agamittha, «Này các Tỳ-kheo, các ngươi hăy đi, v́ sự lợi ích, v́ sự an lạc của nhiều người; v́ ḷng thương tưởng thế gian; v́ sự ích lợi, sự an lạc của chư thiên và nhân loại. Chớ đi với hai người cùng một đường.»
[11] Ma-kiệt-đà; Skt. (=Pl.) Magadha, một trong 16 nước lớn thời Phât. Cf. Trường A-hàm 2 «Kinh Du hành» Đại 1, tr. 11tt.; Trung A-hàm 35, «kinh 142 Vũ thế» Đại 1, tr. 647. Tham chiếu Pali, Mahāparinibbāna (D.ii. tr. 4).
[12] Câu-thi-na; Skt. Kuśinagara (Pl. Kusinagara/Kusinārā), thủ phủ của bộ tộc Malla (Mạt-la); Cf. D.ii. tr. 146
[13] A-xà-thế, hay Vị Sinh Oán; Skt. Ajātaśatru (Pl. Ajātasattu), Quốc vương nước Magadha.
[14] Bạt-kỳ, hay Bạt-xà; Pl. Vajji, tên một bộ tộc, cũng là Vương quôc, thời Phật.
[15] Trường A hàm (Đại 1, tr. 11a), Trung A-hàm 35 (Đại 1, tr.648), Tăng nhất a hàm 34 (Đại 2, tr. 738b); Pl. A.vii. 20. Vassakāra, D.16. Mahāparinibbāna.Bất thối pháp不退法; Pali: aparihāniya-dhamma, không suy thoái. Trong kinh này, có hai loại bảy pháp bất thối: bảy bất thối của quốc vương (rājā-aparihāniya-damma) và bảy bất thối của tỳ-kheoTỳ-kheo (bhikkhu-aparihāniya-dhamma)
[16] Ni-kiền Thân Tử, hay Ni-kiền-đà Nhă-đề Tử: Skt. Nigrantha-Jtiputra (Pl.Nigaṇṭha-Nātaputta), được xem là Giáo tổ Kỳ-na giáo (Jainism); một trong sáu Tôn sư ngoại đạo thời Phât; học thuyết, xem kinh Sa-môn quả, Trường A-hàm 17 (Đại 1, tr. 107); Pali, Sāmaññaphala-sutta, D.i. tr. 57.
[17] Trường A hàm 8 (kinh Chúng tập, Đại 1, tr. 49b). Cf. Tập dị môn, Đại 26, tr. 367. Pali, D. i. tr. 207, 33. Saṅgīti,
[18] Sa-di Châu-na. Pali: Cunda samaṇuddesa. Được đồng nhất với Mahā-Cuṇda em ruột ngài Sāriputta và đắc quả A-na-hàm trong lúc là sa-di.
[19] Trung A hàm 52 (kinh Chu-na Đại 1, tr. 752c). Cf. Pali : M.103. Sāmagāmasuttā. Hán, biệt dịch No 85 Phật thuyết Tức tranh nhân duyên kinh, Tống Thi Hộ dịch. Đại 1, No 85, tr.904. Về 7 pháp diệt tránh trong Luật tạng, Ngũ phần luật 23, Đại 22, tr. 153tt.; Tứ phần luật 47- 48, Đại 22 tr. 913tt.; Thập tụng luật 20, Đại 23, tr. 141tt.
[20] Thuật ngữ theo Luật Tứ phần: 1. hiện tiền t́-ni (Pali: sammukhāvinaya), 2. ức niệm t́-ni (sativinaya), 3. bất si t́-ni (amūḷhavinaya), 4. tự ngôn trị (paṭiññayā kāretabbaṃ), 5. tha nhân ngữ (yebhuyyasikā), 6. tội xứ sở (tassapāyikā), 7. như thảo phú địa (tiṇavatthāraka).
[21] Skt. nói đủ: karmavācanā (Pl. kammavācā), Hán: yết-ma ngữ; dịch: biện sự tác pháp.
[22] Cf. Hành sự sao (Đại 40, tr. 11a), «Thiên 5. Thông biện yết-ma,» phụ chú: «Minh liễu luận sớ phiên là nghiệp. Nghiệp là sở tác (phận sự cần làm). Cũng phiên là sở tác. Bách luận nói là sự. Theo ư nghĩa mà nói, th́ phiên là biện sự. Tức là, nhưng việc cần làm đều phù hợp pháp (được quy định), cho nên có công dụng giúp thành tựu.»