THÁI ĐỘ CỦA PHẬT TỬ TÂY TẠNG
ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA GIÁO
Nguyên tác: Lama A Govinda
Chuyển ngữ: HT.Thích Trí Chơn
Muốn hiểu Phật tử Tây Tạng có thái độ thế nào đối với Thiên Chúa Giáo, trước tiên chúng ta cần biết danh từ “tôn giáo” đối với họ có nghĩa ǵ? Danh từ Tây Tạng sát nhất với nghĩa tôn giáo (hay Đạo) là “Cho”, tiếng Phạn là “Dharma”. Nó có nghĩa là một định luật về tâm linh, vũ trụ hay nguyên lư chi phối hết thảy các Pháp. Sống phù hợp với định luật này là ước vọng cao cả nhất của con người và chính đó cũng là những phương tiện giúp con người đạt đến cảnh giới đạo đức và toàn thiện.
Cho nên, theo dân tộc Tây Tạng, tôn giáo không phải chỉ là hệ thống giáo điều cố định mà là một biểu lộ tự nhiên niềm tin trong ư định muốn đạt đến một cuộc sống cao cả của con người hoặc tự cứu ḿnh thoát khỏi bức thành vô minh và bản ngă vị kỹ để thể nhập được chân lư vũ trụ qua sự giác ngộ của tâm linh. Có bao nhiêu hạng người th́ có bấy nhiêu con đường và pháp môn. Bởi vậy người Tây Tạng không xem hiện tượng đa giáo như một tai họa hoặc là lư do để con người tranh chấp, thù hận nhau và họ cho đó như điều kiện tất nhiên và cần thiết cho sự tiến bộ tinh thần của nhân loại.
Người Tây Tạng vốn có tinh thần tôn trọng cá nhân khá cao, cho nên họ sẵn sàng chấp nhận và tôn kính hết thảy mọi h́nh thức tín ngưỡng và tôn giáo. Do đó, ở Tây Tạng, Phật Giáo cũng như Thiên Chúa Giáo đều có rất nhiều giáo phái. Tuy nhiên, giữa các giáo phái này không bao giờ có sự tranh chấp hay thù ghét nhau. Họ sống ḥa b́nh bên nhau và luôn biết tôn trọng giá trị tôn giáo lẫn nhau. Người theo đạo này không bao giờ hủy báng kẻ theo đạo kia. Tinh thần tôn trọng tín ngưỡng cá nhân ấy đă được thể hiện qua câu ca dao Tây Tạng sau đây:
“Lung-pa ré-ré ka-lug ré
Lama ré-ré cho-lug ré”
“Vùng nào có tiếng nói vùng nấy.
Lạt-ma nào có giáo lư ấy”.
Cho nên với tập tục này, mọi người ai cũng có quyền chấp nhận hay chối bỏ cùng thực hành và công khai bày tỏ ư kiến đối với tôn giáo họ theo. Người ta thường tổ chức những cuộc thảo luận về tôn giáo và ư kiến của quần chúng đưa ra trong những buổi hội thảo đó thảy đều được mọi người tôn trọng. Phần lớn những buổi thảo luận công cộng này thường được sự khuyến khích, giúp đỡ đặc biệt của các tu viện Đại Học Phật Giáo như Ganden, Drepung và Sera. Người Tây Tạng cũng không quá ngây thơ tin rằng chân lư đạo giáo có thể biểu hiện bằng những lư thuyết hay sự tranh luận. Các nhà sư Tây Tạng vẫn thường xác nhận rằng chân lư tuyệt đối không thể nào diễn đạt bằng ngôn từ, văn tự mà nó chỉ có thể hiện bày ở nội tâm do sự tu chứng của chúng ta. Cho nên điều quan hệ không phải ở nơi giáo lư chúng ta tin tưởng mà là ở chỗ chúng ta kinh nghiệm, thực hành giáo lư đó cùng những kết qủa nó đem lại cho chúng ta và mọi người xung quangh. Bất cứ tôn giáo nào hướng dẫn chúng ta đến cảnh giới an lành và giải thoát khổ đau đều là những đạo lư chân chính.
Ở Tây Tạng, dân chúng quư trọng nhà sư hơn ông vua, những người xa ĺa được mọi vật dục thế gian hơn những kẻ giàu sang và ai dám hy sinh mạng sống chính ḿnh để cứu giúp chúng sanh hơn kẻ thống trị toàn thế giới. Cho nên, ngày nay những câu chuyện tiền thân và gương hy sinh của đức Phật thường được mọi người nhắc kể lại trong những buổi lửa trại, các ngày lễ tôn giáo hoặc trong gia đ́nh, các tu viện cũng như giữa những nơi đô thị đông người. Và các câu chuyện này bao giờ cũng gây được nhiều xúc cảm cho người nghe, ngay cả từ anh chàng chăn lừa cộc cằn nhất đến tên gian manh đại bịp ở thành phố. Bởi lẽ chúng không phải chỉ là những mẫu chuyện hoang đường xa xăm, mà là những h́nh ảnh phản chiếu chân thật cuộc sống của bao nhiêu Thánh Tăng Tây Tạng ở quá khứ cũng như hiện tại.
Do đó, chúng ta dễ dàng hiểu tại sao câu chuyện của chúa Jésus chịu đóng đinh trên thập tứ giá để chuộc tội cho loài người vẫn gây được nhiều cảm xúc sâu xa đối với mọi người thường dân Tây Tạng. Tuy vậy, nhưng ví phỏng có ai bảo rằng: “Các anh nênbỏ, đừng theo các vị Thánh Tăng, Lạt Ma nữa mà chỉ nên thờ đức Chúa không thôi” th́ họ sẽ không khỏi ngạc nhiên và bực tức trước câu nói như thế. Bởi lẽ theo họ, chân lư bao hàm duy nhất mà xưa nay những vị giáo chủ, Thánh hiền của nhiều dân tộc đă chỉ bày: đó là bức thông điệp của ḷng bác ái, từ bi cùng sự nhận thức về cái bản thể chân như, vượt ngoài ngôn từ và định nghĩa, mà Thiên Chúa giáo gọi là Thượng Đế (God), Ấn Độ Giáo là Phạm Thiên (Brahman) và Phật Giáo là Toàn Giác (Enlightenment).
Nếu Thiên Chúa giáo không chiếm được địa vị độc tôn ở Tây Tạng mặc dù dân chúng đă dành nhiều cảm t́nh tiếp đón đối với các giáo sĩ đầu tiên đến đây, hẵn có nhiều lư do. Nhưng lư do chính không phải v́ quần chúng không chấp nhận đấng Christ hoặc giáo lư căn bản của Ngài mà trái lại, bởi lẽ những lời dạy của Christ không có ǵ cao siêu vượt hơn những giáo lư của đức Phật, mà từ lâu các vị Thánh Tăng và Lạt Ma đă thực hành ở Tây Tạng nhiều hơn bất cứ nơi nào tại Âu Châu. Lư do thứ hai v́ các giáo sĩ Thiên Chúa trong khi cố gắng giảng truyền giáo lư của đấng Christ tại Tây Tạng, họ lại chối bỏ không chấp nhận những lời dạy cao siêu của đức Phật và những vị Bồ Tát sống ở xứ này cũng như vốn bởi họ sẳn có nhiều thành kiến tôn giáo và hành động cố chấp vào những giáo điều khác với giáo lư bác ái bao dung của Christ.
Và tưởng không có ǵ tŕnh bày cụ thể hơn về thái độ của dân chúng Tây Tạng đối với Thiên Chúa giáo bằng đoạn lịch sử ghi chép sau đây: Vào năm 1625, Padre Antonio de Andrade, vị giáo sĩ Thiên Chúa đến Tây Tạng, đă được vua Guge tiếp đón nồng nhiệt tại Tsaparang (miền tây Tây Tạng). Với tinh thần quảng đại của Phật Giáo, ông đă được nhà vua hết sức trọng nễ và cho phép lưu lại để truyền giáo. V́ nhà vua nghĩ, một người đă nguyện đi khắp thế giới để truyền cái đạo lư của họ đang theo, th́ cái đạo lư ấy chắc là có lắm điều đáng nghe và sứ giả đó cũng đáng được kính trọng.
Nhà vua cũng tự tin rằng chân lư không bao giờ có thể phá hoại chân lư và bất cứ lời dạy chân chính nào ở tôn giáo ngoại lai cũng chỉ đem lại sự tốt đẹp, phát triển thêm cho giáo lư các Thánh Tăng, chư Phật và Bồ Tát ở Tây Tạng mà thôi. Để bày tỏ thiện cảm của ḿnh vua Guge đă viết một bức thư gởi cho giáo sĩ Antonio de Andrade vào năm 1625, có đoạn sau:
“Chúng tôi rất vui mừng về việc Linh mục Padre Antonio đến xứ chúng tôi để truyền đạo. Chúng tôi xem ông như vị Lạt Ma và cho phép ông đủ quyền truyền dạy giáo lư cho dân tộc chúng tôi. Chúng tôi đă ban hành sắc luật cấm chỉ không ai được phép ngăn cản, áp bức ông trong công việc này và chúng tôi sẽ ra lịnh cấp cho ông một khu đất cùng mọi vật dụng cần thiết để ông xây cất một ngôi nhà giảng”.
Nhà vua c̣n cúng cho vị tu sĩ Thiên Chúa trên ngay cả khu vườn riêng của ông, trong khi ở Tây Tạng, những khu vườn như thế rất hiếm và đắc tiền. Nhưng tiếc thay là với những thiện chí sẵn có, nhà vua không ngờ rằng nhà truyền giáo xa lạ kia đến không phải chỉ để trao đổi mọi tư tưởng tốt đẹp và chân thật với những ai đang cùng cố gắng để đạt dến những lư tưởng chung cao quư, mà cốt mong huỷ diệt những giáo lư đức Phậtvàđể thay chúng bằng một tôn giáo khác được họ xem như là chân lư độc nhất.
V́ thế, cuộc tranh chấp đă xăy ra, nỗi bất b́nh của dân chúng mỗi ngày một lan rộng trong nước và sau cùng, nhũng nhà đối lập chính trị với nhà vua đă nỗi lên chống ông ta. Trong khi đó, Linh mục Padre Andrade được khích lệ bởi những kết quả truyền giáo tại Tsaparang, ông ta liền tiếp tục đến Lhasa để mong mở rộng phạm vi giảng đạo khắp vùng Tây Tạng. Sau cùng, v́ căm tức, dân miền tây Tây Tạng đă nỗi loạn, nhà vua bị đă đảo, kéo theo sự sụp đổ của triều đại Guge và nền hưng thịnh của dân chúng miền Tsaparang.
Khoảng một thế kỷ sau, vào năm 1716, nhà truyền giáo Jesuit Padre Desideri đến vùng Lhasa, ông vẫn được dân chúng cung cấp cho một gian nhà tiện nghi, với mọi nhu cầu cần thiết. Ông được nhà cầm quyền tiếp đón như một người khách quư và cũng cho phép ông có quyền phát triển tôn giáo bằng phương tiện giảng dạy hoặc viết sách để phổ biến. Thật vậy, trong một cuốn sách biện bác một vài điểm giáo lư của đức Phật, giáo sĩ Desideri đă ghi nhận sự kiện sau đây:
“Nhà tôi ngẫu nhiên trở thành nơi lui tới thường xuyên của mọi hạng người, đặc biệt là hàng trí thức và giáo sư ở các chùa cũng như những các trường đại học Phật giáo; nhất là tại các trường đại học quan trọng ở vùng Sera và Drepung nhiều người đă mong ước được chúng tôi cho họ đọc những sách đạo”.
Qua những điều trên, chúng ta thấy rằng cùng thời ấy, Tây Tạng thật ra đă văn minh hơn các nước Châu Âu, nơi mà lúc bấy giờ, các tôn giáo ngoại đạo và những sách của họ đều bị ngược đăi đốt phá. Và ai cũng có thể tưởng tượng thấy trước được điều ǵ sẽ xăy ra đối với bất cứ nhà truyền giáo ngoại quốc nào đến La Mă mà dám phản đối công khai những giáo điều của Thiên Chúa.
Cho nên không c̣n ai lạ ǵ khi thấy nhũng bậc bề trên Thiên Chúa khó ḷng chấp nhận được tinh thần khoan dung xuất hiện như cánh cửa rộng mở để đem lại cho họ nhiều lợi ích tốt đẹp, bằng sự chấp nhận những giá trị tinh thần chung của các tôn giáo. Cũng v́ vậy mà biết bao nhiêu cơ hội may mắn để hai tôn giáo lớn cùng ḥa hợp đă trôi qua.
Dù thế nào, chúng tôi vẫn hàng ước mong rằng có ngày những tín đồ của đấng Christ cũng như của đức Phật sẽ cùng nhau gặp gỡ trong tinh thần thiện chí và hiểu biết, cái ngày mà t́nh thương của đức Phật và đấng Christ sẽ được chứng thực một cách cụ thể, hầu đoàn kết thế giới trong nỗ lực chung, để cứu loài người thoát khỏi họa diệt vong bằng cách hướng toàn thể nhân loại trở về với ánh sáng của chân lư.
(Trích dịch tạp chí Maha Bodha
số tháng 5/1962 phát hành tại Ấn Độ)